Có một sự thật khó có thể chối từ, những bằng sáng chế mới có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của ngành sản xuất đồng hồ. Việc cấp bằng sáng chế không chỉ với mục đích là bảo vệ phát minh mà còn là dấu ấn ghi lại các hào quang tạo ra từ các sáng chế đó. Để hiểu rõ hơn điều này, hãy cùng KỲ LÂN LUXURY khám phá qua bài viết dưới đây nhé!
VỎ OYSTER
Hiện nay, khả năng chống nước của đồng hồ khá phổ biến. Nó phổ biến tới mức khiến người dùng nghĩ ngay tới khi hỏi về các tính năng của đồng hồ hoặc thậm chí người ta nghĩ rằng mọi đồng hồ hiện đại đều chịu được lương áp suất nhất định, bất cứ chức năng dự định hoặc phức tạp nào.
Trong khi ngài Hans Wilsdorf và nhóm của ông được ghi nhận là người phát minh ra vỏ đồng hồ “chống thấm nước” mặc dù thuật ngữ này hiện nay được ưa chuộng nhưng không phải ai cũng nắm bắt rõ được toàn câu chuyện. Thực tế, tính kháng nước của đồng hồ được phát hành năm 1926 và vỏ Oyster chỉ là sự thực hiện ý tưởng này về mặt thương mại dựa trên các bằng sáng chế trước đó và tiến bộ trong việc niêm phong bộ máy đồng hồ đeo tay.
Vấn đề kháng nước duy nhất được tiếp cận được xuất hiện trong những năm đầu thế kỷ 20. Trước đó, đồng hồ bỏ túi chưa được nghĩ tới các yếu tố kháng nước bởi chúng được cất ở túi hoặc hộp gỗ. Cho nên những người lính ở thế chiến thứ nhất là người đầu tiên bắt đầu đeo trên cổ tay – minh chứng tính kháng nước là cần thiết và hữu ích, đồng thời cũng thách thức một quan điểm rộng rãi rằng đồng hồ đeo tay là không chất lượng.
Trước đó, đã có nhiều dòng đồng hồ bỏ túi chống nước khác như mẫu Alcide Droz & Fils Impermeable sản xuất khoảng năm 1883. Điều này nhờ vào sự phát triển của Dennison và Ezra Fitch với 2 bằng sáng chế vào cuối thế kỷ 19. Đầu tiên là vòng tròn được đưa vào nắp vặn, thứ hai là cách xiết núm để chỉnh giờ xuống.
Sau đó, cũng có một bằng sáng chế do Francois Borgel nộp năm 1891 cho đồng hồ bỏ túi với khả năng chống nước đã vặn chặt. Các tiến bộ dần dần xuất hiện ở đồng hồ đeo tay. Một trong các trường hợp đầu được ứng dụng sáng chế là đồng hồ chỉ huy tàu ngầm phát hành năm 1915. Nó với mặt sau có vít và gờ có vít, cả hai được giúp giữ ẩm cho đồng hồ. Thiết kế gây chú ý tới mức nó đã được đăng lên bài báo của Tạp chí Horological năm 1917.
XEM THÊM: Vacheron Constantin Patrimony Self-Winding
Sự thành công của vỏ Oyster là sự kết hợp các bằng sáng chế đã tạo ra một bộ phận vỏ Oyster này. Mặt khác cũng nhận thấy rằng, sự thành công về tiếp thị cũng như sáng tạo ở đồng hồ Oyster của Rolex tạo ra cơn sốt cho ngành chế tác đồng hồ. Ngày nay có nhiều thương hiệu cố gắng tạo ra các sản phẩm có khả năng kháng nước ở độ sâu hơn.
TOURBILLON
Đây là bằng sáng chế nổi tiếng trong các dòng đồng hồ đeo tay. Khác với trường hợp vỏ Oyster, Tourbillon là kết quả của một người đàn ông làm việc tách riêng với mọi người để tìm ra giải pháp cho vấn đề chưa được giải quyết. Trong khi, các bằng sáng chế cho tourbillon trao cho Abraham – Louis Breguet năm 1801, ông thực sự phát minh ra các biến chứng sáu năm vào năm 1795.
Sự phức tạp của bộ thoát quay cuồng là do Breguet mất 4 năm sản xuất đồng hồ chứa tourbillon mà ông bán. Sau đó, mất tới 9 thập kỷ để một thiết bị được hình thành, khi nhà sản xuất đồng hồ người Đan Mach Bahne Bonnniksen phát minh ra Karrusel năm 1892. Việc chế tác nó dễ hơn tourbillon, Karrusel mang tới độ chính xác cao hơn số lượng các nhà sản xuất đồng hồ và khách hàng mặc dù thiếu sự khéo léo về kỹ thuật so với phát minh của Breguet.
Ngày nay, Tourbillon có nhiều dạng và được cải tiến vượt xa mọi thứ mà Breguet hình dung. Bay, đôi, góc và con quay hồi chuyển là những tiền tố bây giờ được gắn liền với từ tiếng Pháp nghĩa là gió xoáy. Và thành quả đó là giờ đồng hồ tourbillon được đánh giá là một trong các tính năng phức tạp và khao khát sở hữu.